Đây chính là những từ hàm chứa các phân tích, lý luận của tác giả. Chúng tôi đã cố gắng xây dựng phần này sao cho nó cung cấp đầy đủ thông tin khái quát nhất. Ví dụ, ta có thể đặt những câu hỏi về sự tồn tại như: sự khác biệt giữa tồn tại và không tồn tại là gì? Điều gì chung cho tất cả những gì tồn tại và mọi thứ tồn tại có những đặc tính nào? Có những cách tồn tại khác nhau không? Có điều gì chỉ tồn tại trong trí óc hay phục vụ trí óc không và chúng ta có biết chúng hay khám phá chúng không? Mọi thứ tồn tại có tồn tại hữu hình không hay có những thứ tồn tại không phụ thuộc vào vật chất? Có phải tất cả mọi thứ đều thay đổi không hay có vật nào đó không bao giờ thay đổi? Có cái gì tồn tại vì cần thiết không? Có phải phạm vi của những thứ có thể tồn tại lớn hơn phạm vi của những thứ thật sự tồn tại không?
Nền văn minh Trung cổ chủ yếu dựa trên văn nói vì sách thời đó rất hiếm và khó tìm. Nhưng người nguyên thuỷ có thể không nhất trí với nhà khoa học về các dữ kiện phân tử hạt nhân, cũng như nhà khoa học không tin vào các dữ kiện về phép thuật mang tính nghi thức của người nguyên thuỷ. Aristotle là người luôn suy nghĩ rạch ròi, nhưng mức độ khó trong các tác phẩm còn tồn tại của ông khiến các học giả cho rằng chúng chính là những ghi chú cho các bài diễn thuyết, sách, hoặc là những ghi chú của chính Aristotle hay của một sinh viên nào đó ghi lại những lời dạy của thẩy mình.
Hơn nữa, bạn phải biết cách trả lời chính xác. Các câu trả lời muôn hình muôn vẻ và liên quan chặt chẽ đến nhau tạo thành cuộc tranh luận chung về sự tiến bộ. Nếu không có sự mất cân bằng trong chuyển tải vấn đề giữa tác giả và độc giả, thì con người không bao giờ có thể học hỏi lẫn nhau.
Độc giả và tác giả không ngang hàng với nhau. Cuốn sách này nghiên cứu bản chất hạnh phúc của con người, và phân tích những hoàn cảnh mà con người có thể tìm thấy hay đánh mất hạnh phúc. Tác phẩm Dẫn luận toán học của Whitehead lại mang tính cấp thiết hơi khác.
Hãy nhớ kỹ điều này khi bạn lập bảng so sánh hệ thống từ vựng và thuật ngữ của tác giả. Khi bạn theo dõi bàn tay mình thì khó mà buồn ngủ, mơ màng hay để đầu óc nghĩ vẩn cơ. Tất nhiên là nếu tác giả của tài liệu bạn đang đọc vẫn còn băn khoăn về việc sử dụng thuật ngữ của anh ta, thì bạn với tư cách là độc giả, cũng sẽ không thể hơn thế.
Ví dụ: Một đứa trẻ hai tuổi nói hai cộng hai bằng bốn. Ra đời vào những năm 1940, nó là một danh mục theo chủ đề về các cuốn sách mang tên Các cuốn sách vĩ đại của thế giới phương Tây. Giai đoạn thứ ba của quá trình đọc phân tích hay các quy tắc
Nội dung và bố cục phải nêu được tính chỉnh thể của một cuốn sách Còn ở đây, chúng tôi cố thuyết phục độc giả nên đọc sách theo một cách nhất định, tất cả nhằm giúp bạn có thể hiểu được nội dung cuốn sách. Do đó, quy tắc chung đối với đọc ngoài là đọc nhiều cuốn sách liên quan tới nhau và đọc theo trình tự.
Tuy nhiên, đây đồng thời cũng là điểm bất lợi của văn phong này vì nó không hề mang tính trình bày. Các bất đồng ý kiến có thể được giải quyết bằng cách xoá bỏ hiểu nhầm hoặc sự thiếu hiểu biết. Tất nhiên, các tác phẩm văn học giả tưởng, từ thơ ca đến truyện và đặc biệt là kịch cũng có nhiều điều để độc giả học hỏi nhưng không giống với cách mà chúng ta học từ sách khoa học và triết học.
Chúng tôi không đồng ý với bạn và cho rằng bạn đã sai vì thực tế không phải vậy. Quy tắc thứ hai của việc đọc hiểu ý tác giả đòi hỏi ta phải tìm ra được các câu then chốt trong tác phẩm, từ đó hiểu được hàm ý của tác giả. Một số tác giả khác như Galileo hay Newton, những người sử dụng phương pháp hình học, cũng tiến hành theo cách của Euclid.
Xét một cách chung nhất, tu từ được sử dụng trong mọi tình huống giao tiếp giữa người với người. Một cuốn sách chủ yếu nói đến ý kiến, lý thuyết, giả thuyết hay suy đoán đúng trong một số trường hợp cũng truyền đạt kiến thức cho người đọc, vì thế cũng là một tác phẩm khoa học. Một trong số các nguyên nhân là do cách họ được dạy học đọc như thế nào lúc ban đầu gây nên.